Quy định của pháp luật ở Việt Nam Cạnh tranh (kinh doanh)

Pháp luật Việt Nam đã có những quy định cụ thể về vấn đề cạnh tranh. Ngày 03 tháng 12 năm 2004, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua và ban hành Luật cạnh tranh và luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2005.

Luật này quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh, trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh, biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh. Theo đó, có hai hành vi cạnh tranh là vi phạm pháp luật là hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Hành vi hạn chế cạnh tranh

Là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường, bao gồm hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế.[2]

Cần lưu ý rằng pháp luật ở Việt Nam không quy định về việc chống độc quyền hay xu hướng thống lĩnh thị trường của một hoặc một nhóm doanh nghiệp vì việc độc quyền được coi là một hệ quả tất yếu của sự cạnh tranh bình đẳng trong một nền kinh tế thị trường. Tuy vậy pháp luật ở Việt Nam lại nghiêm cấm việc lạm vị trí độc quyền hoặc thống lĩnh thị trường để thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh.

Theo đó, Doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên quan.[3]

Doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường là doanh nghiệp có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể. Nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh tranh. Bản thân các doanh nghiệp đó phải có thị phần đáng kể để có thể liên kết hạn chế cạnh tranh.

Nếu hai doanh nghiệp thì phải có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan. Ba doanh nghiệp thì phải chiếm từ 65% trở lên. Bốn doanh nghiệp thì phải có 75% thị phần trở lên.[4]

Đối với doanh nghiệp thuộc diện này thì pháp luật nghiêm cấm thực hiện những hành vi kinh doanh như sau:[5]

  • Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh.
  • Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng.
  • Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng;
  • Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh.
  • Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng.
  • Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới.

Cạnh tranh không lành mạnh

Là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh này được thể hiện qua các hoạt động sau:[6]

  • Chỉ dẫn gây nhầm lẫn: Là việc các doanh nghiệp sử dụng chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý và các yếu tố khỏe để làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh.
  • Xâm phạm bi mật kinh doanh.[7]
  • Ép buộc trong kinh doanh: Ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng hành vi đe dọa hoặc cưỡng ép để buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó.
  • Gièm pha doanh nghiệp khác: Bằng hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp đưa ra thông tin không trung thực, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó.
  • Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác: Là hình thức gây rối bằng hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó.

Ngoài ra còn các hành vi khác như:

  • Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
  • Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
  • Phân biệt đối xử của hiệp hội.
  • Bán hàng đa cấp bất chính.

Bên cạnh đó quyền cạnh tranh trong kinh doanh luôn được pháp luật Việt Nam bảo hộ. Điều 4 Luật cạnh tranh quy định về quyền cạnh tranh trong kinh doanh. Theo đó, doanh nghiệp được tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. Nhà nước bảo hộ quyền cạnh tranh hợp pháp trong kinh doanh. Và việc cạnh tranh phải được thực hiện theo nguyên tắc trung thực, không xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, của người tiêu dùng và phải tuân theo các quy định của Luật cạnh tranh.